Đất
đai chi Bảo Đại mà kéo Tây qua đóng đồn...
(Ca dao Quảng Bình)
Hai câu ca dao trên đã khái quát một cách tự hào về truyền thống văn chương
lâu đời của vùng đất Quảng Bình, một vùng đất đầy gian khó về địa dư và thời
tiết, một vùng đất từng trải biết bao binh lửa can qua... Truyền thống văn
chương của con người Quảng Bình liền mạch từ truyền thống đến hiện đại và ngày
càng được phát huy đúng mực. Trải qua năm tháng, không ít các giá trị quý báu
của văn chương Quảng Bình đã được khắc tạc vào thời gian một cách đáng trân
trọng, và được công chúng cả nước thừa nhận.
Trong khuôn khổ một chuyên luận, chúng tôi chỉ có điều kiện trình
bày đại cương về văn học Quảng Bình từ truyền thống đến trước năm 1945. Trong
phần văn học Quảng Bình truyền thống (văn học dân gian) chuyên luận này cũng chỉ
trình bày phần văn học dân gian người Việt, còn phần văn học dân gian dân tộc
thiểu số chúng tôi sẽ đề cập đến vào dịp khác, khi có điều kiện.
I. VĂN HỌC DÂN GIAN
Cũng như các
miền quê khác trong cả nước, vốn văn học dân gian Quảng Bình (viết tắt: VHDG) có
đầy đủ ba bộ phận chính của các phương thức phản ánh của văn học dân gian nói
chung:
- Các thể loại
tự sự (Truyền thuyết, cổ tích, Truyện
cười, Giai thoại, Vè)
- Các thể loại suy
lý (Tục ngữ, Câu đố)
- Các thể loại trữ tình (Ca dao, Hò đối đáp, Đồng dao)
1. Thần thoại.
Kết quả khảo sát vốn VHDG Quảng Bình cho thấy thể loại thần thoại nằm trong các thể loại tự sự ở Quảng Bình là không có, hoặc có rất ít mà
chưa sưu tầm được.
Ở trong vốn Văn học dân gian Quảng Bình chúng
ta chỉ thấy bóng dáng lờ mờ của thể loại thần
thoại xâm nhập vào trong các truyền
thuyết, chứ chưa có một truyện thần thoại hoàn chỉnh nào
sưu tầm được. Ngay trong truyện Long
vương lấy gỗ sưu tầm ở Quảng Trạch,
là truyện có nhiều yếu tố thần thoại, nhưng đối chiếu với các tiêu chí phân
loại của các nhà chuyên môn thì nó vẫn không được xếp vào thể loại này, vì
thiếu hụt rất nhiều phẩm chất nghệ thuật cần thiết của loại thể. Một trong các
tiêu chí lớn của thần thoại là có
thời gian nghệ thuật xa xăm, tối cổ. Quảng Bình là mảnh đất cổ, nhưng con người
sinh sống ở đây, vì lý do lịch sử đã không cùng thời gian hình thành quốc gia
và xây dựng xã hội với các cư dân Việt cổ ở phía Bắc; lại sống xa những trung
tâm văn hoá của đất nước nên chậm phát triển.
Ở đây có một
sự thật là: lúc đó toàn bộ cư dân ở trên dải đất Quảng Bình chưa có khả năng
sống đời sống sáng tạo và lưu truyền VHDG.Với đà tiến hoá này, phải rất lâu sau
đó, nhờ ảnh hưởng của nền văn hoá phía Bắc qua các đợt di dân và nhờ năng lực
tiếp thu cái mới và phát triển tại chỗ, người dân Quảng Bình cũng đã biết sáng
tạo và lưu truyền VHDG; nhưng tiếc thay tại thời điểm lịch sử ấy, thời gian nghệ thuật của thần thoại đã
trôi qua , thể loại thần thoại đã tàn
lụi, không còn nữa. Những ngơ ngác có hệ thống của con người Quảng Bình đương
thời trước sự huyền bí của vũ trụ, do lỡ thời
không có điều kiện thể hiện, nên phải phân tán ra thành những mảnh vụn trong truyền thuyết; thậm chí cả trong truyện cổ tích sau này, như chúng ta đã
biết. Điều này lý giải tại sao trong vốn VHDG Quảng Bình không có các thần thoại giải thích nguồn gốc của đất
nước và dân tộc như các tỉnh phía Bắc, mà còn không có nốt cả những thần thoại giải thích thiên nhiên và con
người sở tại.
2. Truyền thuyết.
Truyền thuyết ở Quảng Bình không đi
ra ngoài cách xây dựng truyền thuyết
chung của dân tộc. Với một hỗn hợp thế giới siêu nhân lẫn trần thế trong một
thời gian nghệ thuật cụ thể xác định, truyền thuyết Quảng Bình kể về những cảnh
quan địa lý hoặc về những nhân vật, sự kiện ở địa phương có quan hệ ít nhiều
đến hiện thực lịch sử cụ thể. Các truyền thuyết Ông Đùng và thằng Sắt, Truyền
thuyết ao trời, Truyền thuyết sông Nhật Lệ, Truyền thuyết Bàu Rồng, là những tưởng tượng thần kỳ dân
gian của người dân Quảng Bình xưa về những địa danh xác định và cả về những
công lao xây đắp, gây dựng quê hương của các tiền nhân thủa xa xăm. Qua các
bóng dáng mờ nhạt và thưa thớt ấy, chúng ta vẫn có cơ sở để hướng về cội nguồn
với một tấm lòng ngưỡng mộ lẫn tự hào.
Các truyền thuyết về thành hoàng của các làng xã (Truyền thuyết về ông tổ làng Đức Ninh, Truyền thuyết về ba ông tổ họ
Trần, Nguyễn, Phan làng Pháp Kệ),
về các đền đài miếu mạo (Truyền thuyết
miếu Chung, Truyền thuyết miếu Quan
Hầu),về phân lập địa giới các địa phương, có niên đại muộn hơn, nên hình
thức của chúng mang nhiều bóng dáng truyện cổ tích. Những truyền thuyết này phổ
biến trong dân gian cốt lưu lại cho đời sau gốc tích tổ tiên thủa khai sinh của
làng xã, nơi đất khách quê người do những người Việt cổ vào khai phá và về sau
đã được chính họ địa phương hoá trong truyền thuyết.
3.Truyện cổ tích. Cũng như trong cả nước,
phần lớn truyện cổ tích ở Quảng Bình xuất hiện khi xã hội và con ngưòi ở đây
được tổ chức theo chế độ phong kiến. Lúc này gia đình riêng lẻ đã được thành
lập để thay thế cho chế độ công xã thị tộc đã tan rã theo đó xã hội đã có giai
cấp . Truyện cổ tích Quảng Bình, do vậy chủ yếu phản ánh cuộc đấu tranh xã hội,
nội dung chính của lịch sử lúc ấy ở địa phương. Chính vì thế, khác với truyền
thuyết, truyện cổ tích đã phản ánh tâm tư nguyện vọng của con người một cách
sâu sắc hơn, đề cập đến các tình cảm riêng tư trong sinh hoạt cá nhân, gia đình
và xã hội một cách phổ biến hơn. Các truyện: Sự tích cây thuốc lá, Sự tích cây rau muống và cây môn, Sự tích cây vạn
thọ, là những truyện tình cảm động, phản ánh khát vọng yêu đương lành mạnh
của nam nữ thanh niên Quảng Bình thuở xa xưa. ở đó, sự chung thuỷ, lòng dũng
cảm, tính trung thực, khiêm tốn, giản dị được đề cao như là phẩm chất quý giá
của tình yêu. điều đó phù hợp với bản tính và cả tâm tư nguyện vọng của các thế
hệ nhân dân Quảng Bình sau này. Các truyện: Ống
thả vàng, Người chị dâu tốt bụng,
lại mang một nội dung phản ánh khác từ khía cạnh riêng tư của con ngưòi, đó là
tính nhân hậu, lòng tốt và sự tương thân tương ái.Truyện Lễ tả thổ, Ăn mắm hàm hương
nhớ thương ông Cống, lý giải các lễ hội ở làng xã và lưu danh công đức của
các nhân vật có công với làng xã. Truyện Vợ
khôn chồng dại phản ánh một tình
huống nhiều khi như bi kịch của đời sống vợ chồng, đời sống gia đình mà đề tài
này ta cũng thường gặp trong truyện cổ tích ở các địa phương khác. Một số
truyện cổ tích về loài vật, về cây trái như: Tụ tị tụ tì không đi cũng cực, Sự tích con sên, con đỉa mang hàm ý
ngụ ngôn sâu sắc, răn dạy con người qua những tình huống cụ thể để bảo vệ các
chuẩn mực đạo đức đương thời.
Bằng sự phong
phú của các đề tài, truyện cổ tích Quảng Bình phần nào phản ánh được đời sống
nội tâm phong phú của người dân đương thời ở đây, xứng đáng là bộ phận quan
trọng nhất trong các thể loại tự sự dân gian.
4.
Truyện cười. Truyện cười Quảng Bình sưu tầm ở địa phương nào cũng
có, tuy nhiên vùng đồng bằng Lệ Thuỷ thể loại này có mật độ tồn tại cao hơn.
Truyện cười nói
chung ta thấy đại thể có mấy phương pháp gây cười chính sau đây: lời nói đáng
cười, cử chỉ đáng cười, và hoàn cảnh đáng cười. Kho tàng truyện cười Quảng Bình
đã sử dụng toàn bộ các phương pháp ấy để gây cười và do đó trên thực tế đã tạo
được những tiếng cười dân gian đa dạng, không hề nhàm chán. Truyện Khoe chữ không đúng chỗ đã dùng phương
pháp lời nói đáng cười rất thông minh để cười chế nhạo những kẻ khoe chữ không
đúng chỗ. Bằng cách hiểu tréo nghoe và hồn nhiên giữa sự đồng âm dị nghĩa của
hai ngôn ngữ Nôm- Hán, người nông dân Quảng Bình đã dạy cho bọn khoe chữ không
đúng chỗ một bài học khiêm tốn rất thấm thía. Còn truyện Đi tết quan huyện lại áp dụng rất thành công một phương pháp gây
cười khác: hoàn cảnh đáng cười. Viên quanlại áp dụng rất thành công một phương
pháp gây cười khác: hoàn cảnh đáng cười. Viên quan huyện tham ăn của đút ở
trong truyện lâm vào hoàn cảnh bị chính những người buộc lòng phải đi đút lót
chửi vỗ mặt mà phải ngậm bồ hòn làm ngọt, không làm gì được. Viên quan huyện
căm tức bao nhiêu, thì người đọc được dịp cười hả hê bấy nhiêu, vì y đang lâm
vào hoàn cảnh đáng cười.
Truyện cười dân
gian Quảng Bình đã sử dụng cả tiếng cười hài hước giản đơn và tiếng cười hài
hước có ý nghĩa xã hội. Tiếng cười hài hước giản đơn nhằm mua vui để giải trí
trong lúc rỗi rãi sau giờ lao động, hoặc tỏ rõ khả năng hài hước của người kể
chứ không nhằm một mục đích nào khác. (Các truyện: Đi thú mới về, Mướn vú nuôi, Bưng vào bưng ra). Ngược lại, tiếng
cười có ý nghĩa xã hội không chỉ để mua vui thuần tuý, mà còn có ý nghĩa đấu
tranh xã hội nữa. Tuyệt đại bộ phận tiếng cười Quảng Bình đã sử dụng tiếng cười sâu
sắc này. Đối tượng bị cười cợt ở đây là giai cấp thống trị trong xã hội phong
kiến (Các truyện: Phú và quý, Lý trưởng kiêm nhiệm), các thầy tu phá
giới, thầy cúng bịp bợm (Các truyện: Tao
đã tìm được huyệt rồi, Mướn vú nuôi, Số thầy thì để cho ruồi nó bu), bọn
trưởng giả học làm sang và cả các thói hư tật xấu trong dân gian (Các truyện: Một xèo bốn năm bảy xèo, Nàng dâu mẹ chồng,
Một ông hai bà, Ăn vụng dừa). Trong loại truyện này, tác giả dân gian không
những làm chúng ta cười mà còn kích động tình cảm chúng ta. Tình cảm ấy có thể
vui, có thể buồn, có thể phẫn nộ, căm ghét, khinh bỉ và cả đau xót. Chính vì
vậy, truyện cười Quảng Bình cũng có được giá trị nhân đạo sâu sắc.
5. Giai thoại dân
gian. Giai thoại dân gian ở Quảng Bình là những ký ức dân gian về các khả năng ứng đối, khả
năng chơi chữ tài tính của nhân dân trong các trường hợp: chống bọn trọc phú
hợm mình ngu dốt; phê phán các thói hư tật xấu trong đời sống xã hội; hoặc đối
đáp vui vẻ bên cây đa bến nước, sắc sảo ân tình bên cối gạo đêm trăng, său một
ngày lao động mệt nhọc Nhân vật chính đại diện cho nhân dân trong giai thoại dân gian Quảng Bình tập trung
vào một vài nhân vật hữu danh, thậm chí có chức sắc ở địa phương: ông đồ, ông
tú, ông thủ khoa. Cũng có lúc đó là những con người bình thường có tài ứng đối:
chị nông dân, anh Ất, anh Giáp Bên cạnh các giai thoại dân gian phiếm danh,rất
nhiều các giai thoại dân gian tập trung vào một vài nhân vật hữu danh, thậm chí
có chức sắc ở địa phương: xã Kiếm, huyện Định, huyện Lê, phủ Tuấn Mặc dù một bộ
phận giai thoại này được gán cho các nhân vật cụ thể trong đời sống, nhưng rõ
ràng đó là những sáng tác dân gian, những ký ức bền chặt về một câu nói, điệu
hò hoặc một cảnh huống cụ thể nào đó qua truyền tụng, trở nên khái quát và do
đó nó đã vượt thời gian.
Giai thoại Tuế thu đả kích kẻ ngu dốt đã dùng tiền
mua được học vị của một đại diện cho nhân dân. Đây là sự chơi chữ thú vị của
một đại diện cho nhân dân khi ông đề chữ tuế
thu tặng vị” tú tài “mua bán này.Tuế
thu là ca ngợi vị này đỗ “tú tài “vào một ngày đẹp trời , nhưng khi bình
tâm mà ngẫm lại (nói lái) thì sự thật được phơi bày thảm hại đến tài tình: Tú
thuê!
Giai thoại dân
gian đã sử dụng phong phú cách chơi chữ để thục hiện các ý định phản ánh: nói
lái, ám chỉ, ngụ ngôn, tu từ, đồng âm dị nghĩa…buộc người nghe phải thêm một
lần khám phá khi thưởng thức và do đó lúc nào cũng gặp bất ngờ nên rất hấp dẫn.
Giai thoại dân
gian có kết cấu gọn, tuyến nhân vật đơn giản,dễ nhớ, dễ kể,thực sự là một
phương tiện sinh hoạt diễn xướng văn hoá dân gian hữu ích, tao nhã ở làng quê
truyền thống Quảng Bình.
6. Vè. Vè sưu
tầm được ở Quảng Bình chủ yếu là vè thế sự,
lấy đề tài trong cuộc sống sinh hoạt vui chơi của nhân dân làm cảm hứng
sáng tạo (Vè người ăn vặt, vè ông Thất, vè người ăn trộm tre, vè
bơi thuyền, vè đánh bạc, vè con gái) Đa số các bài vè thế sự này chỉ lưu
hành trong địa phương khi nhân vật đang còn sống và sự việc còn nóng hổi chất
thời sự. Tính chất người thực việc thực
thể hiện một cách rõ ràng trong các bài vè từ tên riêng của nhân vật, đến các
sự kiện, sự việc thông thường của đời sống xảy ra trong địa phương .
Lẳng
lặng mà nghe
Cái
vè ông Thất
Làm
mùa thì mất...
(Vè ông Thất)
Tuy nhiên, không phải vè ghi lại toàn bộ các
sự việc đã xảy ra mà chỉ những nhân vật, sự việc đã được nhân dân địa phương
nhiệt liệt khen ngợi hay chê bai gay gắt mới được vè lưu ý đến. Như vậy, vè
Quảng Bình không đi ra ngoài đặc trưng phổ quát của vè nói chung: không tự sự
một cách khách quan mà có tính khuynh hướng rõ rệt. Chính tính khuynh hướng này
giúp người nghe vè thấy thái độ của tác giả thẳng thắn, rạch ròi qua cả ngôn
ngữ giàu cảm xúc của lời tự sự.
Người đời đặt
câu hát
Chê người hay
ăn quà
Bởi chưng ăn
vặt mà ra thế này
(Vè người ăn vặt)
Vè Quảng Bình có một bộ phận đi vào những
khía cạnh rất cụ thể, nhưng cũng có một bộ phận khác đạt tới mức khái quát cao.
Ở bộ phận này các người thực, việc thực không còn xuất hiện nữa, mà chỉ chứa
đựng những vấn đề có tính chất chung chung, thậm chí chứa đựng nhiều phần hư
cấu về thân phận người đi ở, đi phu, đàn bà goá, các lời khuyên, các trao đổi
nghề nghiệp (Vè nhật trình đi biển, Vè
làm lẽ, Vè dặn dò, Vè đi lính mộ, Vè thằng nhác, Vè giữ trâu, Vè nói láo, Vè
đánh bạc, vè con gái). Ở bộ phận này của vè nói chung, có những bài kể về
những sự việc có ảnh hưởng lớn, có sức vang động lớn, lâu dần trở thành vè lịch
sử. Loại này chưa thấy xuất hiện nhiều ở Quảng Bình thời trước kháng chiến
chống Pháp (Vè đi lính mộ). Phải sau
đó, một giọng vè thế sự có nội dung lịch sử
mới xuất hiện nhiều hơn ở đây (Vè
mùa đông binh sĩ, Vè đảm phụ quốc phòng, Vè trận Phù Trịch)
Vè quảng Bình nói chung có dung lượng vừa
phải (ngoại trừ bài Vè nhật trình đi biển
dài 350 câu), dễ nhớ, dễ lưu truyền. Ngoài các phẩm chất nghệ thuật nói chung
của loại thể, vè Quảng Bình đã bộc lộ khá rõ tính đặc thù của nó qua nội dung
lẫn nghệ thuật của một miền quê chất phác và bình dị.
7. Ca dao. Ca dao Quảng
Bình cùng với sự hình thành vùng đất này có lẽ cũng chỉ mới xuất hiện trong vài
trăm năm lại đây.Vốn ca dao phong phú đang tiềm ẩn trong nhân dân do nhiều đời,
nhiều nguồn sáng tạo ra. Một bộ phận do nhân dân sáng tác, một bộ phận khác do
theo chân các đợt di dân, hoặc theo những đoàn lính thú lưu đồn mà đến. Tuy
nhiên, qua một thời gian dài được nhân dân bản địa sàng lọc và “chỉnh lý”, ca
dao Quảng Bình, dù bất cứ nguồn gốc nào cũng đều mang bản sắc vùng quê Quảng
Bình: chân chất trong văn phong ngữ điệu, thấm đậm tình người trong nội dung:
Dạ ai hoài cho dù xa ngái
Em xin chàng chớ
ngại đừng nghi
Để em lên Đợi
xuống Tuy
Đắt làm thuê, ế làm
mướn đỡ khi đói lòng
Cũng như các miền ca dao khác, ca dao Quảng Bình nhận
thức mảnh đất quê hương mình bằng một tình cảm chứa chan của những người dân
quê mộc mạc. Đất nước- con người Quảng Bình xuất hiện trong ca dao phong phú
như sự phong phú vốn có của nó. Cảnh đẹp
của quê hương được nhắc đến khắp nơi, mọi lúc như một sự tự hào đúng mực:
- Quê ta một
dải cát vàng
Đu đua gió thổi một
hàng dương xanh
- Quảng Bình
đẹp nhất quê ta
Mấy truông cũng vượt,
mấy xa cũng gần
Truyền thống học hành khoa cử của người Quảng
Bình cũng đã được chính sử triều Nguyễn nhắc đến. Tỉ lệ đỗ đạt, đăng quang so
với dân số tỉnh nhà trong các kỳ thi do triều Nguyễn tổ chức cao đến kinh ngạc.
Nhưng nếu như chúng ta đọc được câu ca dao dưới đây sưu tầm ở một làng quê nhỏ
bé thì sẽ thấy tiềm năng khoa cử rộng lớn và có truyền thống lâu đời của quê
hương là có thực:
Bao giờ hết
cát Mỹ Hoà
Sông gianh hết
nước, La Hà hết quan.
Truyền thống ấy được văn học dân gian giải thích một cách mộc mạc nhưng hết
sức thuyết phục:
Chữ rằng
nhân kiệt địa linh
Đất chung khí
tốt mới sinh anh hiền.
Tuy nhiên, mảnh đất Quảng Bình, từ thủa khai
sinh lập địa chứa chất không ít những gập ghềnh của địa dư, những bấp bênh của
thời tiết. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã đem đến cho người đân sinh sống ở
đây những khó khăn to lớn trong sự sinh tồn. Những khó khăn ấy cũng được ca dao
nhìn nhận một cách công bằng và đầy đủ:
Quảng Bình là đất Ô
Châu
Ai
đi đến đó quẩy bầu về không.
Có thể cũng từ những khó khăn mà quê hương phải gánh chịu này, ngừơi dân
Quảng Bình xưa càng yêu thêm mảnh đất mà mình gắn bó:
Thương chi đồng (bằng) nổi thương con
Nhớ chi đồng nhớ nước non quê nhà,
Ca dao Quảng Bình bên cạnh việc thể hiện tình yêu quê hương đất nước còn
có nội dung phản ánh các mối quan hệ gia đình. Những bài ca dao này thể hiện
một cách sinh động, hấp dẫn những mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình : cha mẹ- con cái,vợ- chồng, anh- em, họ hàng .
Ca dao về sinh hoạt gia đình Quảng Bình
nổi lên một cách bao quát là hình ảnh người phụ nữ chịu thương, chịu khó:
Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ
già con thơ
Dưới chế độ phong kiến, thân phận người phụ nữ thật sự bị
rẻ rúng. Họ là nạn nhân đáng thương của lễ giáo phong kiến, của tệ trọng nam
khinh nữ. Cuộc đời họ đầy rẫy những đau khổ và chịu đựng. Vì thế, trong ca dao
Quảng Bình nói về các mối quan hệ gia đình, phổ biến là những lời thở than về
số phận của những người phụ nữ.
Đây là hình ảnh người phụ nữ lấy người mình không yêu:
Đây là hình ảnh người phụ nữ lấy người mình không yêu:
Cực lòng em phải lấy anh
Rau lang chấm muối ngon lành chi đâu.
Đây là lời than của người phụ nữ đi làm
dâu:
Bà già tôi ham ăn như chó
Làm m ột con gà chẳng ngó tới dâu
Còn
đây là thân phận khổ đau của một người vợ, người mẹ khi chồng sa vào nghiện
rượu chè cờ bạc:
Anh ơi, anh hỡi
anh hời
Anh rượu chè cờ
bạc, anh thua huỷ, thua hoài(...)
Con anh đứa
lật, đứa ngồi
Đứa lăn, đứa khóc
chồng ơi hỡi chồng
Chiếm một số lượng lớn trong vốn ca dao Quảng Bình vẫn là
ca dao nói về tình yêu nam nữ. Đây là vấn đề muôn thủa của xã hội với đầy đủ
các cung bậc tình cảm của nhiều thế hệ, nên ca dao nói về tình yêu đôi lứa cũng
thực là phong phú. Nội dung của ca dao về tình yêu đôi lứa có thể phản ánh được
toàn bộ các biểu hiện tình yêu trong tất cả các chặng đường của nó: từ gặp gỡ
ướm hỏi, gắn bó thề bồi, hạnh phúc ước mơ, đến những than thở oán trách vì thất
bại, trắc trở. Tuy nhiên người dân Quảng Bình chất phác, theo đó tình yêu của
họ được bộc lộ một cách giản dị ở tất cả các cung bậc tình cảm, nhưng cũng rất
mãnh liệt.
Phút gặp gỡ ban đầu e thẹn, những lời thề tình yêu, sự đợi chờ khắc khoải của những người yêu nhau cũng thật là độc đáo, ấn tượng và cả đáng tin :
- Gặp chàng dứng lại bên đàng (đường)
Quần
chằm, áo bá(vá) chào chàng hổ
ngươi (Xấu hổ)
- Lên non thiếp cũng lên theo
Xuống thuyền thiếp cũng đập đeo(đeo vào) mạn thuyền
Xuống thuyền thiếp cũng đập đeo(đeo vào) mạn thuyền
- Trông ai mà chẳng
thấy ai
Tranh cùn lại đứt rèm
phai mặc rèm
Mọi cung bậc tình cảm của ca dao về tình yêu đôi lứa ở Quảng Bình đều có đủ và rất phong phú. Tuy nó không được mượt mà thâm hậu như ca dao tình yêu xứ bắc, nhưng những khúc ca tình yêu của chúng ta mang nột bản sắc riêng, gần gũi với tình cảm và con người xứ sở, do vậy nó được truyền tụng rộng rãi và dài lâu.
Ngoài các nội dung trên, ca dao Quảng Bình còn đề cập đến các nội dung khác như: Lịch sử, các mối quan hệ xã hội, tinh thần đấu tranh chống áp bức bóc lột, phê phán các tệ nạn xã hội. Sự phong phú về nội dung cộng với nghệ thuật thể hiện điêu luyện và độc dáo là hai nhân tố chính góp phần làm cho ca dao trở thành bộ phận quan trọng trong kho tàng văn học dân gian Quảng Bình
8. Hò đối đáp. Hò đối đáp Quảng Bình được
trình bày ở đây đã tước bỏ đi phần giai điệu và hình thức sinh hoạt của nó, chỉ
còn lại phần lời ca và do đó thực chất cũng chỉ là những bài ca dao đối đáp mà thôi. Hò đối đáp thường xảy ra giữa nam và nữ,
được hình thành quanh các cối gạo đêm trăng, hoặc trong các buổi lao động sản
xuất. Các lời hò đối đáp khác với ca dao ở chỗ có một phần của cô gái và một phần của chàng trai bổ sung cho nhau thành một
nội dung hoàn chỉnh để diễn đạt một ý nào đó; có thể là về tình yêu đôi lứa,
các mối quan hệ xã hội, làm quen, hoặc dể thử tài nhau:
Nữ: Em đi đò Quán Hàu
Em
gặp một o đội nón xoáy ốc
Tay
bắt hến miệng hát nghêu ngao
Trai nam nhi anh đối được
Em sẽ mở lời chào đón anh
Nam: Anh qua đò chàng ếch
Anh gặp ông xã cóc
Tay xách xâu nhái
Đi bán chợ Mỹ Hương
Trai nam nhi anh đà đối được
Lời chào nọ em hãy mở đường đón anh
Trong các cuộc hò đối đáp này, người nổi
tiếng hò giỏi không phải chỉ vì có tài “tiệp” lời ứng khẩu, mà phần lớn còn là
vì nhớ nhớ được nhiều câu ca dao có thể mang ra ứng đáp với đối phương trong
mọi tình huống. Do đó, hò đối đáp(
lời ca) trong trường hợp này mang đầy đủ phẩm chất của ca dao
9. Đồng dao.
Đồng dao là những bài hát của trẻ em gắn liền với các trò chơi con trẻ. Đó
là những câu hát bắt vần lắm khi không cần logic, không cần nội dung, để phục
vụ những trò chơi dân gian vẫn lưu truyền từ nhiều đời nay. Đồng dao sưu tầm
được ở quảng Bình rất nhiều, có mặt ở khắp mọi miền quê. Đó là những tư duy sơ
khai lộn xộn, nhưng vẫn có được sức sống dài lâu có lẽ do một mặt gắn với các
trò chơi, mặt khác nó xâm nhập vào trí nhớ, vào thủa đầu đời nên khó quên
chăng?
Thụt ống rộng
rại
Rại rê rại
riến
Đi kiếm khắp
nơi
đi chơi khắp
bạn...
Văn học dân gian Quảng Bình đã phản ánh đậm nét và sâu sắc các mặt tự
nhiên, xã hội của vùng đất, con người xưa ở đây bằng hình thức thể hiện chân
chất, giản dị, trong sáng và không kém phần điêu luyện. Kho tàng văn học dân
gian Quảng Bình đang còn là một tiềm năng to lớn, cần phải được tiếp tục sưu
tầm, nghiên cứu có hệ thống.
II. VĂN HỌC THÀNH VĂN GIAI ĐOẠN TỪ THẾ KỶ XuVI ĐẾN TRƯỚC
NĂM 1945.
Thực ra, văn học Hán Nôm Quảng Bình chắc
chắn phải hình thành trước thế kỷ XVI bởi các nhân vật khoa bảng dưới các triều
đại phong kiến.
Tính từ khoa thi
Thái học sinh năm Bính Thìn niên hiệu Nguyên Phong thứ 6 đời Trần Thái Tông
(1256) đến khoa thi năm Kỷ Mùi 1919, tỉnh Quảng Bình có 49 vị đỗ đại khoa và hàng trăm vị đỗ cử nhân, tú tài. Họ là
những bậc trí giả, học rộng tài cao, rất giàu khả năng văn chương thi phú. Tầng
lớp khoa cử đông đảo ở Quảng Bình này trong suốt quãng đời học hành, thi cử làm
quan, đỗ đạt..., chắc chắn họ có sáng tác văn thơ; bởi văn thơ thời đó chẳng
những gắn liền với sự nghiệp học hành, khoa cử mà còn là phương tiện để các bậc
quân tử bộc lộ chí hướng, ước mơ, gửi gắm tâm trạng và cả thù tạc tao nhã. Tiếc
thay, bộ phận văn học Hán Nôm quý giá này ở Quảng Bình đã bị mất mát, hoặc nếu
còn thì cũng rất ít, ở đâu đó trong các thư viện, hoặc trong di cảo của các
dòng họ, các cá nhân mà ít ai được biết đến.
Sách Ô Châu cận lục (thế kỷ XVI) của Dương Văn An trong mục Văn nhân ghi
danh nhiều tên tuổi Quảng Bình đời Lê
Mạc: Trần Vỹ, Hoàng Thượng Xá, Đặng Đại Lược, Hoàng Công Đán, Nguyễn Phi Diệu...Họ
là những người "Văn chương học thuật
nổi tiếng trường thi". Trong số này có Hoàng Công Đán, quê ở huyện Lệ
Thuỷ. ông rất chăm chỉ học hành, có chí lớn, hai lần đậu hương giải, được vời
ra làm quan. Ông rất hay làm thơ, ngâm vịnh,
nhưng tiếc thay đến nay không tìm thấy đuợc một bài thơ nào của ông. Bên
cạnh đó có Nguyễn Phi Diệu, cũng người huyện Lệ Thuỷ rất giỏi thi phú. Ông là
cháu tri phủ Văn Các con tri huyện Văn Thăng. Sự học của ông là do gia đình dạy
dỗ. Ông đậu Nho Sinh, rồi đậu giải nguyên, thi hương, nhưng vừa lúc ấy có cơn
biến loạn nên ông an phận ở nhà làm thơ, dạy học . Người ta vẫn còn nhớ đến một
câu thơ tự thuật của ông:
Bảng chiếm dương ngô mai bạch tuyết
Lao tâm lậu bì thảo huyền nhân.
( Chiếm bảng riêng mình mai trắng toát
Nhọc lòng cười khách cỏ đen
ngòm.)
Đó là những tên tuổi đã được sử sách ghi nhận có tài văn chương, có sáng
tạo văn chương, nhưng đáng tiếc các trước tác của họ đến nay đã bị thất truyền,
gần như tất cả.
Tuy nhiên, cũng ở thời kỳ Lê - Mạc này, văn học Quảng Bình còn lại một số
tên tuổi lớn xứng đáng là những người đầu tiên đặt nền móng cho văn học viết ở
địa phương: Dương Văn An (1514 - ? ),
Nguyễn Hữu Dật (1603 -1681) Nguyễn Hữu Hào (1646 - 1714). Kho tàng Văn học Hán Nôm Quảng Bình
hiện còn lưu lại một tác phẩm có thể coi là cổ xưa nhất: Sách Ô
châu cận lục của Dương Văn An. Văn nhân họ Dương này người huyện Lệ thuỷ,
thi đậu tam giáp tiến sĩ khoa Định Vị (1547) thời nhà Mạc, làm quan đến chức
Lại khoa Đô thống sứ, rồi lên Lại Bộ tả thị lang. Ông biên hội xong tác phẩm Ô châu cận lục vào năm 1553, là cuốn sách Địa chí ghi chép về lịch sử, địa
lý, văn hóa... của miền "Hoá Châu ta"
(Bao gồm các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế ngày nay ). Tuy là sách địa chí, nhưng văn phong
rất giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, với lối hành văn biền ngẫu quen thuộc đương
thời, đọc rất lôi cuốn: Đền ở huyện Chân Linh, châu Bố Chính. Lưng
liền với núi biếc, mặt ngắm xuống duyềnh xanh. Phía dưới thì nước biếc, như màu
chàm, phía trên thì non xanh như tấm thảm. Động thì có cửa vào, cửa hẹp chỉ vừa
một chiếc thuyền con. (...) Với một bó đuốc đi men lội nước lần vào, nghe gió
thổi như đàn, dộng vang tựa sáo...
Từ sản vật, địa dư, đến anh hào, lịch sử,
dưới ngọn bút có tài của Dương Văn
An được đúc kết lại thành đất nước, quê
hương, hiện lên giữa tâm hồn người đọc, ngọt ngào, nóng hổi, linh thiêng.
Nhận định về
tác phẩm Ô Châu Cận lục, nhà nghiên cứu Lương An viết: "Là một cuốn
sách địa lý, Ô Châu cận lục ghi lại
tên làng, tên núi, tên sông, những sản vật, những con chim, con thú, những
thành thị, chợ búa, nhà trạm đồn binh, danh lam thắng tích, những ngành nghề và
tập quán sinh sống (...) kể lại cho chúng ta những truyền thuyết xa xưa về các
vùng đất, các đền chùa, các thành quách, khiến lịch sử thêm sâu thẳm, thêm vang
vọng và kết hợp vào cuộc sống, những truyện cổ dân gian nuôi dưỡng mãi điều
ngay lẽ phải trong lòng người”. Ô Châu cận lục là tác phẩm quan trọng và đang được coi là tác phẩm mở đầu cho dòng văn
học thành văn Quảng Bình trong điều kiện tư liệu hiện nay. Theo đó, Dương Văn
An đã trở thành tác giả đầu tiên của địa phương. Hơn thế nữa, Dương Văn An và
tác phẩm của ông đã được các học giả đời
sau luôn xem như một nguồn tư liệu phong phú và quý báu để tham khảo.
Hơn 100 năm sau sách
Ô
Châu cận lục xuất hiện, tác phẩm thứ
hai của văn học Hán Nôm Quảng Bình mới ra đời: Hoa Vân Cảo Thị. Tác phẩm được Chiêu vũ hầu Nguyễn Hữu Dật (1603
- 1681) viết trong tù khi bị chúa Hiền
Nguyễn Phúc Tần cầm giam vì nghi ông "toan đầu hàng chúa Trịnh".
Nguyễn Hữu Dật sinh năm 1603 tại Thăng Long, con quan tham chiếu Nguyễn Triều
Văn, do bất mãn với chúa Trịnh đã vào nhập cư tại Phong Lộc (huyện Quảng Ninh)
tỉnh Quảng Bình năm 1609, khi Nguyễn Hữu Dật mới lên 6 tuổi. Nguyễn Hữu Dật vốn
học giỏi, từng đỗ đạt cao ở khoá thi "Hoa văn" (khoá thi cao nhất của chúa Nguyễn thời đó) và được
bổ làm quan. Sau đó ông gặp nạn như đã nói, và ở trong ngục, Nguyễn Hữu Dật
buồn bã sáng tác nên truyện thơ Hoa Vân Cảo
Thị, qua đó tự ví mình như Anh Liệt
Chí thời Minh sở bên Trung Quốc. Nội dung câu chuyện kể về chàng Hoa Vân tài ba
khẳng khái, khi bị bắt đã mắng vào mặt quân giặc mà bị chém chết. Vợ chàng
- nàng Cảo Thị - không chịu theo giặc tuẫn tiết cùng chồng.
Câu chuyện với lời thơ da diết, trung hậu ẩn chứa tấm lòng thành của tác giả
trước sự dèm pha, tị hiềm của kẻ xấu đối với mình. Nhờ đó mà chúa Hiền hiểu
được tấm lòng của ông, phóng thích và trả lại chức tước cho ông.
Giá trị nghệ
thuật và nội dung của tác phẩm đã khiến các nhà soạn tuồng để ý và chuyển thể
thành vở diễn dưới các tên gọi Huê vân
hữu lượng, Trung thần liệt nữ và từ lâu đã lưu hành và rất thịnh hành trên
dải đất từ Quảng Bình đến Bình Định. Đời sau, nhiều người còn nhớ rõ lời giới
thiệu mở màn của vở tuồng chuyển thể từ truyện "Hoa Vân Cảo Thị".
Nhớ
xưa tích cũ có một người tên gọi Hoa Vân
Đã một niềm ái
quốc trung quân
Hai vợ chồng lại
hiền nhân tiết nghĩa . . .
Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân
tranh, văn học thành văn Quảng Bình còn có một tên tuổi nữa: nhà thơ Nguyễn Hữu
Hào (1646 (?) - 1713). Ông sinh năm 1646
tại Vạn Ninh Quảng Bình, là con của Nguyễn Hữu Dật. Năm 43 tuổi ông giữ chức
cai cơ, nhưng vốn có truyền thống văn học nên ông trở thành một tướng quân có
tâm hồn văn nhân. Sự nghiệp văn học chính của Nguyễn Hữu Hào được lưu lại ở
truyện thơ "Truyện Song Tinh",
tuy nhiên trước hết, cũng phải đề cập đến những bài thơ chữ Hán, thể Đường luật
của ông, những bài thơ thể hiện một hồn thơ có thể gây được "hứng khởi
lòng người".
Thực ra thơ chữ Hán của Nguyễn Hữu Hào người ta chỉ tìm thấy mấy bài trong
tập "Hải ngoại kỷ sự" của Hoà thượng Thạch Liêm, tức Thích Đại Sán,
người Quảng Đông Trung Quốc .
Dưới đây là một
bài thơ điệp vận của Nguyễn Hữu Hào họa lại nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán
trong cuộc xướng hoa bút đàm của mình:
Nho thích xưa hay vốn
khác dòng
Mặc dầu dòng khác vẫn
tương thông
Chiếc thuyền cửa Pháp
vành trăng tỏ
Tay lái nhà nho ngọn gió
lồng...
Còn "Truyện Song Tinh" thì được ông viết vào năm 1704 tại dinh Võ Xá (huyện Quảng Ninh) khi đang làm trấn thủ trấn Quảng Bình, lúc rảnh rang chiến sự. Sách "Đại Nam liệt truyện tiền biên viết ": Gặp lúc biên cảnh vô sự, Hữu Hào thích ý hàn mặc có làm "Truyện Song Tinh bất dạ" bằng quốc âm được nhiều đời truyền tụng". "Song Tinh bất dạ" là một cuốn truyện thơ bằng chữ Nôm có dung lượng lớn nhất trên văn đàn nước ta trong vòng 5 thế kỷ từ XIII đến đầu XVIII. Toàn truyện, trừ những phần đã mất đi vẫn còn lại đến 2302 câu thơ lục bát và xen kẽ một số bài thơ Đường, di ngôn và văn thế khác. Phải đến hơn một trăm năm sau khi truyện song tinh ra đời thì một số truyện thơ khác mới xuất hiện: như Truyện Hoa Tiên, Truyện Kiều . . .
Cũng như các truyện thơ đương thời,
"Truyện Song Tinh" được Nguyễn Hữu Hào phóng tác từ cuốn tiểu thuyết
"Định tình nhân" của văn học Trung Quốc. Cốt truyện kể về tình duyên
của đôi trai tài gái sắc chàng Song Tinh (tự Bất Dạ) và nàng Nhụy Châu sinh
trưởng trong các gia đình lễ giáo. Trong quãng thời gian dài chàng lên đường
ứng thí, đã có nhiều biến cố xảy ra, nhưng cả hai đều vượt qua và cuối cùng họ
được hưởng hạnh phúc và vinh hoa phú .quý xứng đáng với
tình yêu của mình.
Câu chuyện sở dĩ được người đương thời đón đọc và lưu giữ đến được ngày nay là nhờ vào cách hành văn bình dị, không cầu kỳ, dễ nhớ, bằng một ngôn ngữ đậm màu sắc Quảng Bình khiến người đọc thấy gần gũi, thân thuộc:
- Đến ngày mở tiệc
lộng chương
Nghiệm điều mới đặt tên chàng Song Tinh
- Thong dong khăn sửa bâu gài
Kề gần thôi mới kiếm bài dan ca
Tuy nhiên tác
giả cũng không kém phần tài hoa trong các trang tả thiên nhiên, mà về sau ta
gặp phảng phất đầu đó trong Truyện Kiều:
Cành mai
rợp rợp tuyết in
Sởn sơ đào liễu đan chen hạnh hồng
Giả Sơn rêu toả khói phong
Sườn Thai tót lạ, non Bồng đua thanh
Mặc dù truyện được phóng tác từ một tiểu thuyết Trung Quốc, nhưng Nguyễn Hữu Hào vẫn thổi vào tác phẩm của mình tinh thần thời đại, một thời đại tàn khốc Nam - Bắc phân tranh với biết bao cuộc chiến và cả nỗi khát khao sum họp đất nước trong thái bình thịnh trị của toàn dân tộc:
Trước là tình nghĩa vẹn toàn
Sau là sum họp một đoàn vầy vui.
"Truyện Song tinh" của Nguyễn Hữu Hào là một tác phẩm quý giá cả
về nghệ thuật, văn hóa ngôn ngữ lẫn nhân sinh quan, và thấm đẫm các giá trị
nhân đạo giá trị hiện thực..., là một đóng góp to lớn của ông chẳng những cho
văn học địa phương mà còn cho cả nền văn học nước nhà.
Theo Như Hiên
Nguyễn Ngọc Hiền, căn cứ vào văn nghiệp ấy Nguyễn Hữu Hào cần được xếp ngang
hàng cùng với các danh nhân văn hóa Nam Hà ở thế kỷ XVII-XVIII và "Truyện
Song Tinh" cần được khôi phục vị thế của nó trong nền văn học nước nhà
hiện nay.
Bước sang thế kỷ 19, văn học
thành văn Quảng Bình ghi nhận tên
tuổi nhiều vị túc nho là những tác giả văn học, nhà biên khảo tài năng đã để
lại nhiều áng văn chương, nhiều công trình biên khảo có giá trị góp phần quan
trọng tạo nên diện mạo chung của văn
học thành văn Quảng Bình giai đoạn này: Nguyễn Hàm Ninh, Hà Văn Quan,
Phạm Văn Quế, Nguyễn Phạm Tuân, Huỳnh Côn, Đoàn Chí Tuân, Lưu Đức Xưng, Trần
Mạnh Đàn, Võ Khắc Triển. . .Bên cạnh đó còn có nhiều vị thật sự là các nhà thơ,
nhà văn, đã viết nhiều thơ phú, nhưng tiếc thay tác phẩm đã bị thất truyền:
Nguyễn Khắc Khoan, Trần Ngọc Quán, Lưu Lượng, Trần Ngọc Diệu (Tự thuật), Nguyễn Văn Để (99 đỉnh núi), Đỗ Đức Huy, Bạch Doãn Triều, Bùi Cao Phan (Nhật trình), Trần Thưởng, Nguyễn Trung
Thầm, Nguyễn Trọng Can (Nói về nàng Mộng
Thu), Nguyễn Hữu Bình, Lê Quang Tạo...
Văn học thành văn Quảng Bình giai đoạn này nổi bật
lên vẫn là thơ Đường luật với các nội dung tâm huyết với thời cuộc, thông cảm
với nỗi khổ của lương dân, chống bọn cường hào, ác bá ở nông thôn kháng chiến
chống kẻ thù và cả cảm tác trước thiên nhiên.
Tác giả tiêu biểu
của giai đoạn văn học này phải kể đến Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867). Nguyễn Hàm
Ninh người làng Trung Ái, huyện Bình Chánh, đậu cử nhân năm Minh Mạng thứ 12
(1831) làm quan đến Án sát. Ông học giỏi, nổi tiếng hay thơ. Sách "Đại Nam
nhất thống chí" đã viết về ông: "Có tiếng là người văn học, hay thơ
và sở trường về thơ ngũ ngôn, thi tứ trầm hùng, ức dương đủ cách". Trước
tác của ông còn để lại đến ngày nay là
hai tập thơ "Nhâm Sơn thi tập" và "Tĩnh Trai thi sao", bài
thơ Nôm tứ lục "Phản thúc ước" và một số bài thơ lẻ, bài ca trù khác
. . . Văn thơ Nguyễn Hàm Ninh điêu luyện về nghệ thuật, và chất chứa một tình
cảm lớn lao của một thi sĩ trước thời cuộc trong nội dung. Ông làm quan, nhưng
sống thanh bần, không ít lần chứng kiến cảnh "Thê ra đãi mễ khấp" (Vợ con đợi gạo khóc), nên ông rất thông
cảm với nổi khổ của bà con nông dân đương thời. Bài "Tức sự di chư đồng chí" là một tiêu biểu trong sự đồng cảm đó
của ông:
Trời nung nấu gay gắt
Hoàng Hà nước đục ngầu
Hạn hán kéo dài mãi
Nông dân biết tính sao?
Cầu cúng không trông cậy
Ai tả nỗi dân đau?
Các quan chính là kẻ
Làm ra hạt mưa rào
( Thơ
tức sự gửi các bạn )
Ông, ngoài ra còn có một tâm hồn nhạy cảm, thơ ông có nhiều rung động trước cảnh sắc quê hương, tuy vậy, ông đã nhận rõ hoạ ngoại xâm từ trời Tây kéo đến với sự bồn chồn lo lắng cả với quyết tâm kháng chiến của một người luôn quan tâm đến vận mệnh đất nước.
Nam quốc sơn hà chung bất động
Tây nhung kỹ lãng dục hà như
(Bài Lệ Sơn xuân vọng)
Dịch nghiã:
Núi sông nước Nam quyết không thể lay chuyển
Giặc cướp phương Tây muốn làm trò trống gì? Với các trước tác còn lại, Nguyễn Hàm Ninh
xứng đáng được coi là chủ soái của văn
học thành văn Quảng Bình thế kỷ 19.
Vài thập niên sau đó, xuất hiện các tác giả mà tên tuổi của họ gắn liền
với phong trào Cần Vương chống Pháp. Trong số này, ngày nay còn lưu giữ được
tác phẩm của hai vị : Nguyễn Phạm Tuân và Đoàn Chí Tuân. Văn thơ của các tác
giả này chủ yếu là thể hiện tấm lòng yêu nước sục sôi, ý chí đấu tranh bất
khuất và tinh thần xả thân vì sự nghiệp cứu nước, cứu nhà.
Nguyễn Phạm Tuân ( 1842 - 1887 ) , tự là Tử Trai , sau đổi là Dưỡng Tăng
người Võ Xá , huyện Quảng Ninh. Ông đỗ cử nhân năm 1873 . Hưởng ứng chiếu Cần
Vương, ông mộ binh chống Pháp và sau đó bị bắt. Trước khi tự vẫn để giữ tròn
danh tiết, ông có để lại hai câu thơ tuyệt mệnh:
Ơn nước bao đời đền một chết
Phúc nhà trăm tuổi gửi ba sinh
Văn thơ ông viết nhiều, nhưng chỉ còn lại một bài " Đề nghĩa vương miếu".
Đoàn Chí Tuân (1855 - 1897) còn có tên là Đoàn Chí Mậu ,
hiệu Bạch Xỉ, người làng Hoà Ninh ( Quảng Trạch ). Ông có tài làm thơ nhanh và
nhiều. Tác phẩm còn lại của ông hiện nay gồm 7 bài thơ Nôm, 2 bài thơ chữ Hán,
2 bài phú Nôm và 1 bài hịch chữ Hán. Ông thường lưu truyền câu sấm " Bạch
Xỉ sinh , thiên hạ bình " và cả câu thơ dưới đây để chiêu mộ quân đánh Pháp
Một lũ thầy tăng ra trị nước ( tức
thằng Tây )
Có ông Bạch Xỉ mới nên đời . . .
Giai đoạn này,
văn học thành văn Quảng Bình tưởng cũng
phải nhắc đến hai tên tuổi khác: Hà Văn Quan và Võ Khắc Triển.
Hà Văn Quan (1826 - 1888) được mệnh danh là "ông quan 12 đài
sách" bởi sự đọc rộng, viết nhiều của ông. Ông sinh tại làng Vĩnh Tuy,
Tổng Long Đại (Quảng Ninh). Trước tác của ông có cuốn sách bằng chữ Hán :
"Yên hành nha ngữ thi cảo" từng được sách "Lược truyện tác gia
Việt Nam"
của Trần Văn Giáp nhắc đến.
Còn Võ Khắc
Triển là một độc đáo khác của văn học Quảng Bình. Ông là vị tiến sỹ nho học
cuối cùng của Việt Nam.
Trước tác của ông không có nhiều, chủ yếu là dịch thuật. Ông không những dịch
các kiệt tác của Nguyễn Du, thơ Đường, mà còn dịch cả sách tôn giáo và nhiều
tài liệu lịch sử khác.
Bên cạnh các tác
giả sáng tác, nhiều tác giả biên khảo cũng đã xuất hiện với những công trình
đáng chú ý ở giai đoạn này. Trước hết phải kể đến Phạm Xuân Quế người xã Lũ Phong huyện Bình
Chánh (Quảng Trạch). Ông đỗ phó bảng năm 1841 làm quan Lang Trung, từng giữ
chức Sử quán toản tu. Ông là một trong những người tham gia biên soạn nên bộ
sách nổi tiếng "Khâm Định Việt Sử thông gián cương mục" của
triều Nguyễn. Bộ sách đã và đang trở thành công cụ tra cứu quan trọng cho những
người biên khảo về sau.
Phó bảng Huỳnh Côn (1850 - 1925) cũng là một nhà biên khảo tiên phong xuất sắc đương thời. Sự nghiệp văn
chương của ông ngoài tập thơ Nôm "Hà Nguyên thi khảo" và rất nhiều
bài thơ câu đối, nguời sau cũng phải nhắc đến hai công trình biên khảo có giá
trị của ông:"Chiêm thành khảo" và "Quảng Bình khoa lục".
"Chiêm thành khảo" được ông viết năm Duy Tân thứ tám (1914) bằng chữ
Hán, là công trình độc nhất trong tỉnh Quảng Bình khảo về Chiêm thành từ khi
khai quốc đến thời đại của ông. Công trình đã từng dùng làm giáo trình giảng
văn sách cho Vua Duy Tân. Còn "Quảng Bình khoa lục" gồm hai tập với
đầy đủ các phần ghi chép rõ các nội dung phàm lệ, điều lệ thi cử, địa điểm thi, Ban giám khảo, số người dự thi
mỗi khoa, số người trúng tuyển của tỉnh Quảng Bình từ năm Gia Long thứ 12
(1813) đến năm Duy Tân thứ 4 (1910). Biên khảo về khoa cử địa phương, bên cạnh
Huỳnh Côn còn có Lưu Đức Xưng, người làng Cao Lao (Bố Trạch) cũng có một trước
tác tương tự. Ông ngoài ra còn có tác phẩm "Hội điển" và quan trọng
nhất là đồng tác giả với Cao Xuân Dục và Trần Xán biên soạn bộ "Đại Nam
nhất thống chí", một bộ sách địa lý học Việt Nam đầy đủ nhất dưới thời
phong kiến. Ở tất cả các mục, "Đại Nam nhất thống chí"
đời Tự Đức có rất nhiều tài liệu không những về địa lý mà cả về lịch sử, kinh
tế, chính trị, văn học nghệ thuật nữa. "Đại Nam nhất thống chí" cung
cấp cho người đọc rất nhiều tài liệu quý báu về tất cả các tỉnh của Việt Nam từ
Lạng Sơn đến Hà Tiên.
Ngoài ra cũng cần phải nhắc đến
Đẩu Tiếp Nguyễn Văn Đề (không rõ năm sinh), người quê làng Vĩnh lộc, phủ Quảng
Trạch, với tác phẩm "99 đỉnh núi"
viết về thân thế, sự nghiệp văn chương khoa bảng của Nguyễn Hàm Ninh. Tác phẩm
được biên soạn cẩn thận, nghiêm túc bằng tư liệu phong phú, đầy đủ, văn phong
hấp dẫn, mà sau khi đọc người đương thời cho rằng: "Người thứ hai, khi
muốn thực hiện tác phẩm (về Nguyễn Hàm Ninh) làm sao tin tưởng việc này”
Cùng
thời kỳ này và cho đến về sau có một số thể loại văn học thành văn khác tồn tại
ở khắp các đình chùa miếu mạo Quảng Bình: thần
tích, văn bia, văn chuông. Chỉ tính riêng một làng Cảnh Dương (huyện Quảng
Trạch) một trong "tứ danh hương" ở phía Bắc tỉnh đã có một bài văn
chuông và nhiều bài văn bia khác mới tìm thấy được. Đây là những áng văn hay,
chẳng những có giá trị văn chương, mà còn có giá trị. lịch sử, lưu lại muôn đời
các giá trị tinh thần truyền thống của quê hương. Bài ký khắc trên chuông
"Cảnh Viện hồng chung" có đoạn viết: "Kính nhớ: chùa làng ta gọi Cảnh Phúc từ lúc mở nền có hai bậc nghiêm
trang bốn phía, tự nhiên còn đến nay; xưa có đủ trống chuông khi ngân lên thì
cảnh phật sáng sủa; trải qua nạn lửa binh trầm luân đạo phép, hồng chung bị mất
nên rừng thiền vắng lặng. Đã muốn được thoả lòng thông cảm, há không ra công
đúc lấy chuông hay sao ? . . .".
Văn bia, văn chuông, thần tích, những thể loại văn học cổ này có mặt ở hầu khắp các làng quê Quảng Bình.
Nhưng cho đến nay, vốn văn học thành văn giá trị này chưa được sưu tập và biên
dịch đầy đủ.
Bước sang thế kỷ
20, một luồng gió mới thổi vào phong trào
văn học thành văn Quảng Bình và từng bước làm thay đổi bộ mặt văn chương ở
đây. Cuộc cách mạng dân quyền từ Trung Quốc cùng với các tài liệu của nó vang
dội đến Việt Nam, vang dội đến Quảng Bình, bắt đầu lay tỉnh các sĩ phu lâu nay
đắm say trong trường khoa hoạn hướng tới trào lưu tư tưởng mới. Thêm vào đó, sự
ảnh hưởng Tây học đã làm phai nhật dần lối tầm chương trích cú, lối ngâm hoa
vịnh nguyệt vốn đang quán xuyết trong sáng tác văn chương thời bấy giờ.
Bên cạnh sáng
tác của các vị túc nho tiền bối bằng chữ Hán -
Nôm, một lực lượng sáng tác văn chương mới, bằng chữ Quốc ngữ hình
thành. Một bộ phận sáng tác văn chương bằng chữ Hán - Nôm khác, vì muốn phù hợp với thời thế, hoặc
vì nhận thấy đây là xu hướng thời đại nên đã chuyển sang sáng tác bằng chữ Quốc
ngữ. Cộng tất cả các lực lượng này lại, kết hợp với truyền thống văn chương thi
phú của quê nhà, lý ra những năm đầu thế kỷ 20,
văn học thành văn Quảng Bình phải có một diện mạo khá phong phú. Thế
nhưng, cho đến bây giờ, tìm trong đời sống văn chương và cả trong thư tịch chỉ
có một số ít tác giả lưu lại, mà phần đông trong số họ thành danh ngoài quê
hương: Trần Mạnh Đàn, Nguyễn Trọng Cẩn, Lê quang Tạo, Lưu Trọng Lai, Võ Nguyên
Giáp, Lưu Trọng Lư, Lê Văn Khoan, Nguyễn Trung Thầm, Nguyễn Trọng Can, Nguyễn
Hữu Bình . . . Phải chăng, ở thời điểm lịch sử này do mảnh đất Quảng Bình chưa
phải là điểm nóng của các trào lưu tư tưởng mới, sự ảnh hưởng Tây học còn yếu
ớt, môi trường sáng tạo văn học theo lối mới chưa hình thành đầy đủ, nên chưa
giải phóng được các năng lực sáng tạo văn chương ngày tại chính quê hương?
Giai đoạn sáng
tác này trước hết phải kể đến tác giả Trần Mạnh Đàn (1882 - 1950). Ông quê xã Thuận Bài phủ Quảng Trạch, đậu cử nhân khoa
Nhâm Tý (1912), sau đi làm quan. Trước tác của ông rất phong phú về thể loại:
Văn thơ, dịch thuật, biên soạn sách công cụ...mà trong số đó mới chỉ ấn hành được 2 cuốn: "Giấc
mộng quê hương" và "Quốc ngữ
đính ngoa". "Giấc mộng quê hương" được viết vào năm 1925, trong
đó ông thuật lại cảnh sắc làng mình như một giấc mơ, có đường ngang lối dọc
rộng lớn thẳng tắp. Nhà cửa xây bằng gạch ngói cao ráo, khang trang. Làng có
trường học, công viên, nhà thương, chợ búa, đèn điện sáng trưng. Dân làng ai cũng quần áo gọn
gàng, đẹp đẽ . . . Có thể nói đó là ước mơ đẹp đẽ của ông. Trần Mạnh Đàn không dùng thơ văn để thù tạc,
ngâm vịnh thuần tuý, mà để răn dạy, tuyên truyền đạo lý, cảm nhận danh thắng,
ghi nhận sự kiện, phổ biến khoa học, thậm chí làm công cụ để khai hoá dân lành:
Tấm lòng cải cách ta ôm sẵn
Khai hoá dân lành phải gắng công. . .
(Tuyên Hóa 1919)
Có thể xem tập
thơ "Thuận Giang thi tập" của ông là một tập bút ký bằng thơ, miêu tả
hầu hết các địa phương ông đã từng hành hạt: Tuyên Hoá (Quảng Bình) Can Lộc (Hà
Tĩnh), Mộ Đức (Quảng Ngãi), Cam Lộ (Quảng Trị), Hoằng Hóa (Thanh Hoá) . . . Các
bài thơ hành hạt này thường để ông bày tỏ nguyện vọng trong cương vị của mình
như lúc ông đến hai tổng Kim Linh và Cơ Sa (Tuyên Hóa):
Hai tổng kim cơ ở
ngoại vùng
Dân phong khác hẳn với
miền Trung
Cô, bà mấy tộc không mang áo
Nhà cửa ba bề ở bít bùng (...)
Tấm lòng cải cách ta ôm sẵn
Khai hoá dân lành phải gắng công.
Năm 1923 Trần
mạnh Đàn viết cuốn "Tuyên Hoá huyện
chí". Có thể coi ông là người viết địa chí một huyện đầu tiên trong
lịch sử văn học Quảng Bình. Tiếc thay cuốn địa chí này đến nay đã thất truyền.
Còn cuốn "Quốc ngữ đính ngoa" của ông là sách
công cụ dùng để học chữ Quốc ngữ mà theo Trần Trọng Diên: "Đây là cuốn
sách đầu tiên có hệ thống và phương pháp về chánh tả Việt ngữ" (Quảng bình
quê tôi -1971). Ngoài ra Trần Mạnh Đàn còn để lại nhiều tác phẩm khác chưa xuất
bản, mà đến nay không biết còn hay mất: "Thuận Giang Hán văn thi
tập", "Địa dư tiện độc", "Hán văn bị thế giáo khoa
thư". Về dịch thuật có dịch ra tiếng Việt các cuốn: "Kinh dịch",
tập "Điều Trần" của Nguyễn Trường Tộ, tập "Nghiêm phương Tân
biên" (Sách thuốc). . .
Trần Mạnh Đàn là tác giả có nhiều trước tác
nhất , quán xuyến nhiều vấn đề nhất , trong số các tác giả Quảng Bình đương
thời.
Sau Trần Mạnh
Đàn, phải kể đến Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn và hai anh em văn sỹ họ Lưu.
Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn
(1897-1947) là một nhà thơ thuộc lớp người Hán
học nhưng ông không làm thơ chữ Hán. Ông sinh tại làng Hậu Lộc (Lộc
Điền), Xã Quảng Thanh, huyện Quảng Trạch. Tác phẩm của ông có tập thơ Tiếng cuốc canh khuya, Phú Lý Đình, Văn tế
trận vong tướng sĩ, và rất nhiều bài báo, bài khảo luận về văn hoá dân tộc
đăng ở tạp chí Thần Kinh và báo Trường An. Thơ ông vừa trào phúng trong các sự
kiện lịch sử: ''Năm cụ khi không rớt cái
ình”(Bài "Năm cụ": tả năm vị thượng thư bị hạ đài ) vừa trào lộng
trong tình yêu: ''Người chẳng thương ta
ta cứ thương'' (Bài "Người chẳng thương ta".). lại có cả lạc quan
khi buổi đầu tiếp xúc với cách mạng:
Trời Nam Việt tưng bừng cảnh mới
Tiết Xuân này khác với xuân xưa
Sao Vàng cờ đỏ tung đưa
Non Xanh nước biết nhởn nhơ một màu...
(Mừng
tết độc lập đầu tiên).
Lưu Trọng Lai (Anh ruột Lưu Trọng Lư) sinh năm 1907 tại
làng Cao Lao (Bố Trạch), có thơ đăng trên nhiều báo và tạp chí lớn thời đó như:
Tao đàn, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ bảy...
Ông có các thi phẩm: ''Tiếng nhạc sông
Hương'' (1937-1938), ''Bản tày sen nở''
(1939-1941) ''Chầm chậm bước tầm phương
''(1949)... Thơ của ông, người đương thời chia ra thành 2 loại: thơ đời và thơ
đạo. Thơ đời của Lưu Trọng Lai chịu ảnh hưởng sâu xa của thơ Đường, nên tuy là
mới mà nhiều bài'' có cái nhẹ nhàng, cái kín đáo, cái kỳ diệu'', có hàm xúc thơ
Vương Duy. Đó ''chỉ là những bông hoa màu nhạt, hương thanh, e lệ nở trong một
góc đường nhưng ai dám bảo là những bông hoa không quý?''
Chim tiễn ngập ngừng chim
biếng gọi
Nước đưa lặng lẽ nước buồn
trôi
Bâng khuâng tính khách
Nói chẳng nên lời
Theo nhịp chèo đưa
Não lòng khách lắm nước, chim ơi!
Đinh ninh nguyền ước
Đành quyết chia phôi
Còn Lưu Trọng Lư, người sáng tạo ra hình ảnh ''con nai vàng ngơ ngác - đạp lên lá vàng khô'' có một địa vị to lớn
trong giai đoạn này của văn học thành văn Quảng Bình.
Ông sinh năm 1912, nổi tiếng nhờ thi phẩm ''Tiếng thu'' (1939) vì trong đó có bài thơ cùng tên đã được nhạc sĩ Lê Thương phổ nhạc:
Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàngkhô?
Cống hiến quan
trọng của ông thời kỳ này là cùng với Phan Khôi, hai trong những người đầu tiên
làm cuộc cách mạng thơ cũ, khởi xướng
phong trào thơ mới. Thơ của Lưu Trọng Lư, thơ mới ''nhẹ nhàng như hơi thu, bay
bổng như mây rừng và trong veo như dòng suối chảy''. Những áng thơ này đã được
Hoài Thanh bình luận thoả dáng trong cuốn ''Thi nhân Việt Nam'' : ''Trong thơ
Lư nếu có tả chim kêu, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó là mối quê hương
của Lư... Có những bài thơ cứ vương vất trong trí tôi hàng tháng, lúc nào cũng
như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là
những công trình nghệ thuật mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hoà theo
tiếng thổn thức của lòng ta''.
Bên cạnh thơ,
Lưu Trọng Lư còn sáng tạo rất nhiều tiểu thuyết lãng mạn khác : ''Cầu sương điếm cỏ''. ''Gió cây trút lá'',
''Người sơn nhân'' (1933), ''Khói lam
chiều'' (1941)..
Với những cống hiến văn chương to lớn của mình, tháng 10
năm 1995, UBND tỉnh Quảng Bình quyết định lấy tên ông để đặt tên giải thưởng
văn học của tỉnh: Giải thưởng Lưu Trọng Lư.
Một số tác phẩm
của các tác giả khác như cuốn ''Những áng văn nói về nàng mộng thu'' của Nguyễn
Trọng Can, tiểu thuyết ''Những mảnh tình quê hương'' của Nguyễn Hữu Bình, các
bài tham luận về văn chương của Nguyễn Trung Thầm... đã góp phần làm cho diện
mạo văn học Quảng Bình càng về sau, càng thêm phong phú.
Văn học thành
văn Quảng Bình giai đoạn này còn có một tác giả chính luận xuất sắc : Võ Nguyên
Giáp. Ông sinh năm 1911 tại Làng Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, về sau trở thành nhà
lý luận chính trị, nhà quân sự xuất sắc của Đảng. Tác phẩm ông viết thời kỳ này
gồm các tập: Vấn đề dân cày (ký tên Vân Đình, viết chung với Trường Chinh). Vấn
đề dân tộc ở Đông Dương (1939). Lược sử cuộc đại cách mạng Pháp (1939). Kinh
nghiệm Việt Minh ở Việt Bắc (1944). Nội dung chính của các tác phẩm là phân
tích các quan điểm cơ bản của Đảng ta về đấu tranh độc lập dân tộc, vạch trần những quan điểm cải lương,
phản động,phổ biến kinh nghiệm kháng chiến . . . bằng một văn phong chính luận
trong sáng, chặt chẽ.
Văn học thành văn Quảng Bình đầu thế kỷ 20 là dòng
văn học mới của giai đoạn này, sáng tác bằng chữ Quốc ngữ với nhiều thể loại
phong phú, đa dạng mà giai đoạn trước đây chưa từng có: Tiểu thuyết, truyện
ngắn, chính luận, biên khảo, dịch thuật, thơ mới . . ., mà trong đó chủ đạo vẫn
là tiểu thuyết và thơ. Điều quan trọng
là giai đoạn này, văn học Quảng Bình đóng góp cho văn học nước nhà một nhà tiên
phong cách mạng thơ cũ đáng lưu danh: Lưu Trọng Lư. Văn thơ lãng mạn giai đoạn
này đã rời khỏi lối tầm chương trích cú, rời khỏi sự thù tạc của thơ cũ, nhưng
lại rơi vào cái tôi thuần túy với những ước mơ khát vọng, những nỗi niềm riêng
tư tế tắc. Tuy nhiên, văn thơ giai đoạn này đã có phần nhân tính hơn. Và, có
một điều quan trọng nữa là nó đã góp phần chuẩn bị về mặt hình thức và nghệ
thuật biểu hiện cho văn học cách mạng sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đại Nam nhất thống chí- Quốc sử quán triều Nguyễn, Phan trọng Điềm
dịch, nxb KHXH Hà Nội, 1970.
- Ô châu cận lục – Dương Văn An, do Trần
Đại Vinh và Hoàng văn Phúc hiệu đính, dịch chú, nxb Thuận Hóa, Huế 2001.
- Lịch sử Quảng Bình của Lương Duy Tâm-
Bảo tàng tổng hợp Quảng Bình xuất bản năm 1999.
- Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình- BCH Đảng bộ
tỉnh Quảng Bình, 1995.
- Danh nhân văn hóa Quảng Bình – Vĩnh
Nguyên và Nguyễn Tú sưu tầm, biên soạn.
- Quảng Bình di tích và danh thắng- Trần
Hùng và Trần Hoàng sưu tầm, biên soạn, Sở VHTT Quảng Bình, 1990
- Thi nhân Việt Nam- Hoài Thanh và Hoài
Chân, Thiều Quang phát hành năm 1967.
- Hợp tuyển thơ văn Việt Nam Tập 2, 3-
Nxb Văn học, Hà Nội, 1984
- Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuân – Nhiều tác
giả- NXB Khoa học xã hội, Hn, 1982
- Tạp san Quảng Bình quê tôi 1970,
1971,1972,1973- Hội đồng hương Quảng Bình ở Sài gòn.\
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng thẻ sau để:
- Post hình : [img] link hình [/img]
- Post video: [youtube] link youtube [/youtube]