Con ngủ đi con / Cho mẹ đi tuốt lúa về làm
ăn /Cho bố đi bắn con gấu về
làm ăn
Tỉnh Quảng Bình có hai dân tộc thiểu số: dân tộc Bru-Vân
Kiều và dân tộc Chứt , với hơn 19.000 nhân khẩu, chiếm khoảng 2% dân số của
tỉnh. Dân tộc Bru-Vân kiều gồm 4 tộc người: Vân Kiều, Khùa, Ma coong, Trì . Dân
tộc Chứt gồm 5 tộc người: Sách, Mày, Rục, A rem, Mã liềng . Các dân tộc thiểu
số còn lại với số dân không nhiều như: Thổ, Mường, Tày, Thái, Pa cô...
Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình có dân số không
nhiều, lại phân thành nhiều tộc người,
trong đó có những tộc người dân số chỉ vài trăm người như A rem, Rục.., sinh
sống chủ yếu ở các xã vùng sâu, biên giới, nơi có điều kiện tự nhiên, kinh tế-
xã hội hết sức khó khăn. Tuy vậy, trong quá trình lao động sản xuất và đấu
tranh với thiên nhiên để sinh tồn, đồng bào các dân tộc thiểu số Quảng Bình đã
cố gắng sáng tạo và gìn giữ cho riêng mình rất nhiều giá trị văn hoá vật chất,
tinh thần độc đáo, trong đó có vốn văn học dân gian đặc sắc. Kho tàng văn học
dân gian dân tộc thiểu số Quảng Bình mang đậm bản sắc riêng của tộc người.
Ngoài ra, ở vùng miền núi tỉnh Quảng Bình còn
có khoảng 35000 người Nguồn, một tộc người của người Việt, cận cư lâu đời với
đồng bào Chứt, do kết quả của sự giao lưu văn hoá, nên xuất hiện một số yếu tố
chung, gần gũi, đặc biệt trong văn hoc dân gian với dân tộc Chứt, nên cũng được
chúng tôi xem xét chung ở đây.
Trong kho tàng văn học dân gian dân tộc
thiểu số Quảng Bình, nghệ thuật ngôn từ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, trong
đó, ca dao, dân ca xuất hiện thường xuyên trong đời sống tinh thần của đồng
bào; ngoài ra, còn có tục ngữ, câu đố và
một số loại thể khác, nhưng số lượng không đáng kể.
Ca dao dân tộc thiểu số Quảng Bình (bao gồm cả phần lời
trong các làn điệu dân ca) có nội dung và nghệ thuật khá độc đáo. Nhìn chung,
ca dao các dân tộc thiểu số Quảng bình tập trung phản ánh các nội dung chính
sau đây:
-Tình yêu quê
hương, làng bản, lòng tự hào với sự giàu có, trù phú của núi rừng, qua đó động
viên nhau quyết giữ lấy “núi rừng quê ta”.
-Tình yêu lao động, dẫu là một thứ lao động
cổ truyền vất vả từ sáng đến chiều, nhưng là tự do, nên vẫn say sưa , vẫn thích
thú, vì nó đem lại cuộc sống vui tươi.
-Tình yêu nam
nữ với tất cả các cung bậc tình cảm của nó.
Đi
tìm con ká tơm, hỡi anh! / Bắt được bỏ vào ca dăng, hỡi anh!
Với nội dung phong
phú, đượm chất trữ tình, ca dao dân tộc thiểu số Quảng bình được sử dụng phổ
biến trong nhiều bối cảnh: Đọc cho nhau nghe, dùng để hát đối đáp, làm lời cho
các khúc dân ca; gắn bó một cách tự nhiên với sinh hoạt hàng ngày của đồng bào.
Với đồng bào Nguồn,
bên cạnh các bài ca dao ca ngợi quê hương làng bản ( Thứ nhất Thanh Lạng, Bàu La
/ Thứ hai Hung ải, Thứ ba Minh Cầm...), phản ánh tình yêu đôi lứa ( Em giàu rồi em lại khôn / Anh đang đói rách
như chồn thóc mách tho me...), còn có
rất nhiều các bài ca dao khác được sử dụng vào dân ca, mà ngay hệ thống tên gọi
cũng đã cho thấy sự đa dạng, phong phú trong
đời sống vật chất, tình cảm của đồng bào: Đi săn, Vợ anh anh hỏi đã lâu, Hát năm ba chuyện giải khuây, Con cá
chặt đầu chặt đuôi, Nỗi khổ lấy chồng chung, Trách tình nhân... Cần phải nói đến ở đây phần lời ca –
thực chất là những khúc ca dao – trong điệu Hát
sắc bùa, Hát chúc trò của đồng bào Nguồn. Đây là lối hát phổ biến của người
Nguồn dùng để chúc phúc, chúc lộc lẫn nhau trong dịp tết âm lịch. Điệu hát này
thể hiện khả năng ứng tác lời ca tuyệt vời của các nghệ nhân, vì tuỳ theo từng
cuộc hát ở từng gia đình mà nội dung diễn xướng có thể thêm bớt, dài ngắn khác
nhau, nhưng không thoát ra ngoài nội dung chúc tụng:
Được mùa để ăn cho lời
Để ăn cho lời mà để
chơi lâu
Mừng ông với mụ sống
lâu thọ trường
Lê lê là lê
Mừng ông với mụ sống
lâu thọ trường
Lê lê là lê
Với người Chứt và người Bru Vân Kiều, số
lượng ca dao tồn tại độc lập như một
đơn vị văn học dân gian chỉnh thể không nhiều. Đa số trong đó đã hoá thân vào
dân ca và hát ru và muốn xem xét nó không thể không nhắc đến các làn điệu pa eo ,Tơm tá lêng (Dân tộc Chứt); Oát, Prơdoạc, Roai, Adâng con (Dân
tộc Bru Vân Kiều), để giao lưu trong lao động, trong những lúc đi sim tỏ tình,
trong các đám hội hè, cưới xin, hoặc tế lễ ma chay, và cả trong những lúc ru con
ngọt ngào êm ái...
Dẫu làm ăn vất vả, một nắng hai sương,
nhưng ít tìm thấy những lời kêu than buồn khổ trong các bài dân ca Chứt và Bru
Vân Kiều. Ở đó người ta thường thấy những lời ca ví von ẩn dụ sâu sắc, đối đáp
trữ tình giữa nam và nữ mà thôi:
Nam: Đi tìm con ká tơm, chị
ơi!
Bắt được bỏ vào ca dăng,
chị ơi!
Lấy trầu ăn trầu, chị ơi!
Như con chim rừng Lào
Như con chim phía Nam
Như con chim miền xuôi, chị
ơi!
Nằm ở ngọn khe này.
Sang ở ngọn khe kia . . .
Nữ:
Đi tìm con ká tơm, hỡi anh!
Bắt được bỏ vào ca dăng, hỡi
anh!
Lấy trầu ăn trầu, hỡi anh!
Đã chờ đợi nhau
Chờ đợi đến gặp nhau
Mang nặng, nắng nóng mấy
cũng đi, hỡi anh!
( Pa eo-Tơm tá lêng, Dân tộc Chứt)
Hoặc:
Nam : Thân thể em mịn màng như hạt
gạo trắng đầu mùa, em ơi!
Da dẻ em mát mẻ như nước trong đầu
nguồn, em ơi
Nữ : Yêu
anh lắm, anh ơi! Thân anh cân đối đẹp đẽ
Yêu anh lắm anh ơi! Dáng bộ anh sao dễ
thương quá chừng !
Thấy anh ơi! Muốn lấy cơm trong tip ra
mời anh
Em muốn cởi tấm áo đang mặc ra tặng anh!
(Oát, Dân ca Bru Vân Kiều)
Tình cảm gia đình, tình yêu
thương cha con, mẹ con cũng được biểu hiện sâu sắc trong lao động làm ăn hằng
ngày bằng những lời ca mộc mạc, chan chứa tình người: ông bà dạy cháu, cha mẹ
dạy con nên người:
Siêng làm ăn, đừng nhác
Muốn được vợ, được chồng
Như thiên hạ,
Như xóm làng
Phải làm bằng xóm làng.
Đừng nói huyên thuyên
Chớ ghen tuông thàm thẹ
Mà phải theo anh em
Theo họ hàng làng xóm
(Bố dạy con - Hát ru Dân tộc Chứt)
Hoặc:
Ơ ơi! Con cáo ngủ ngồi ơ ơi!
Con tê giác ngủ gật
Con voi rống tiếng
Con nghé ọ ơ ơi!
...
Cho con mang vòng bạc nặng cùi tay,
con gái mẹ ơi
Cho con mang vòng vàng nặng cổ tay,
con gái mẹ ơi
(Hát ru
Dân tộc Bru Vân Kiều)
Ca dao dân tộc thiểu số Quảng Bình với tư cách
lời các bài dân ca cũng được sử dụng nhiều trong những lúc đi phát rừng làm
rẫy, đi rừng tìm ong, làm vòng bẫy chim thú rừng, đi khe suối câu, chài cá, bắt
cua đá, xúc tôm hoặc đi nằm chòi canh giữ nương rẫy:
Con ngủ đi con
Cho mẹ đi tuốt lúa về làm ăn
Cho bố đi bắn con gấu về làm ăn...
Ngủ đi con
Để mẹ đi làm
Lấy cây
mía, lấy quả chuối
Để cho mình ăn . .
Ca dao dân tộc thiểu số Quảng Bình có nhiều nội dung phong phú như đã trình bày,
và hơn thế, nó còn có một giá trị nghệ thuật đặc sắc với lời lẽ trau chuốt,
giàu hình tượng, có âm hưởng sâu lắng đủ để thể hiện các cung bậc tình cảm giản
dị nhưng rất độc đáo của dân tộc mình, và do vậy đã được chính đồng bào trân
trọng và lưu truyền.
Cũng cần nói thêm rằng thể loại tục ngữ, một thể loại suy lý, mặc dù ít,
nhưng cũng đã có mặt trong kho tàng văn học dân gian dân tộc ít người Quảng
Bình. Đó là những quan sát trực giác để đúc rút nên các kinh nghiêm sống trước
các hiện tượng tư nhiên, xã hội : - Rạng sáng nấm bét bắt đầu nhú
Mặt
trời đứng ngày (trưa) nấm đai xoè tán
-
Xách bầu phải xem quai
Địu con
phải xem vải buộc
Làm cỏ
phải xem cán nầm
Trong đời sống thực tế, miếng ăn, nơi ở
của đồng bào dân tộc thiểu số Quảng Bình xưa phần nhiều còn dựa vào sản phẩm tự
nhiên, tùy thuộc vào bối cảnh tự nhiên, trên cơ sở nền kinh tế chiếm đoạt là
chủ yếu và tổ chức xã hội của cộng đồng
còn đơn giản, theo đó kinh nghiệm sản xuất và sinh hoạt xã hội còn ít. Và dây
cũng là một thực tế làm hạn chế sự nẩy nở loại hình tục ngữ trong kho tàng văn học dân gian ở đây.
Ca
dao dân ca đồng bào dân tộc thiểu số Quảng Bình là một sản phẩm tinh thần vô
cùng quý giá cần phải được tiếp tục sưu
tầm, nghiên cứu và phát huy.
Ảnh chụp đẹp quá.
Trả lờiXóahồi em còn nhỏ, bà nội em có quyển Dân Ca Việt Nam, trong đó có nhiều hình ảnh chụp trắng đen thui, rất đẹp anh ạ. vô số câu ca dao của các vùng miền. hồi đó, em hay lấy ra ...ầu ơi ví dầu cho vui. nhưng không thấy cái giá trị của nó. Giờ thì về hỏi , nội ...bỏ mất đâu rồi, không tìm ra nữa. Thật tiếc.
Mỗi vùng có đặc trưng riêng, nhưng tựu trung, đều ca ngời tình cảm thủy chung son sắt, ca ngợi vẻ đẹp của đời sống lao động, của cảnh vật xung quanh mình... Đọc bài viết của anh , em được thêm một chút hiểu biết về vùng đất Quảng Bình - nơi em chỉ mới ghé thăm có một lần .
Một mùa giáng sinh an lành, hạnh phúc cùng gia đình , anh nhé.
Hồi nhỏ đã hay ...ầu ơi ví dầu, vậy khi làm mẹ, có khi nào ĐT gặp khó khi ru quý tử ngủ không vậy?
XóaĐừng vắt tay lên trán,
Trả lờiXóaNgủ thoải mái say sưa
Hỡi em…
Anh đang lội dưới suối,
Mò con cá con cua
Hỡi em…
Hãy mang đăng đến nhanh
Kẻo trời đã sang trưa,
Hỡi em…
Dân ca dân tộc nào vậy bác Nano Bobi ơi
XóaĐấy là Dân ca của dân tộc NaBo, và còn hai đoạn kết nữa (định không đưa vào) đó là":
XóaChiều về cùng nâng đũa,
Xì xụp bát canh chua,
Hỡi em.
Tối có chiều chuyện lạ
Như thần tiên như vua,
Cùng em...
Bài này bác Ru cần đưa vào đề tài cấp nhà nước cùng với GS Tô Ngọc Thanh để khảo cứu, hihi
Dòng dân ca có các vần "UA, ƯA" xuất hiện như MƯA này Ruchung CHƯA "gặp dạng" bao giờ. Có lẽ nên ĐƯA sang bên các bác nhạc Việt làm ca từ có lẽ VỪA cỡ hơn bác NANO ạ.
XóaNgười nguồn không phải Chứt không phải Bru vân kiều nhưng cũng không hẳn là kinh.
Trả lờiXóaHay là một thứ kinh thời cổ xưa. Bu tui trong thời chiến tranh có ở với các đơn vị TNXP người nguồn, ban đầu để nghe và hiểu được phải có thông ngôn. Chiếc máy bay là óc máy pay, to to là sam sam, uống nước là oóng dác, đi đâu về là ti nô viên...Đã có một ông giáo làm dự án xin tách người Nguồn ra khỏi người kinh thành một dân tộc nguồn, không hiểu kết quả đến đâu rồi.
Cũng nói thêm các em nguồn TNXP rất xinh, da trắng hồng châp hành mệnh lệnh thủ trưởng tuyệt đối. mơ mộng trử tình hơn cả người kinh hihihi
Người Nguồn bây giờ vẫn là tộc người Nguồn của dân tộc Việt, bác Bu ạ.
XóaBài viết rất sâu sắc!!
Trả lờiXóahttps://www.nguoiduatin.vn/dieu-tri-hieu-qua-benh-phu-khoa-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-a373132.html
https://www.24h.com.vn/tin-tuc-suc-khoe/chat-luong-kham-dich-vu-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-c683a963956.html
https://thitruong.nld.com.vn/doanh-nghiep-doanh-nhan/kham-gan-tai-phong-kham-chuyen-gan-hong-phong-20181008104826483.htm
https://suckhoedoisong.vn/kham-gan-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-quan-5-n144852.html